Điểm sách: Những suy nghĩ về thế giới hiện đại của nhà nhân học Pháp Claude Lévi-Strauss
15852
wp-singular,post-template-default,single,single-post,postid-15852,single-format-standard,wp-theme-bridge,wp-child-theme-bridge-child,bridge-core-3.0.6,qode-page-transition-enabled,ajax_updown,page_not_loaded,,qode-title-hidden,qode-child-theme-ver-1.0.0,qode-theme-ver-29.3,qode-theme-bridge,wpb-js-composer js-comp-ver-6.10.0,vc_responsive

Điểm sách: Những suy nghĩ về thế giới hiện đại của nhà nhân học Pháp Claude Lévi-Strauss

Xin mời các bạn đọc bài giới thiệu bản dịch tác phẩm của nhà nhân học Pháp, Claude Lévi-Strauss, Nhân học đối diện với những vấn đề của thế giới hiện đại, do TS. Nguyễn Thị Hiệp chuyển ngữ và giới thiệu. Sách được xuất bản trong khuôn khổ Vietnamica: Dự án châu Âu về nghiên cứu lịch sử và số hóa tư liệu văn bia Việt Nam.

 

Trong vòng 24 năm, đã có năm quyển sách của nhà nhân học Pháp Claude Levi-Strauss đã được dịch toàn bộ và xuất bản, bao gồm: 1) Chủng tộc và lịch sử (Nguyễn Kiến Giang dịch, 1996), 2) Nhiệt đới buồn (Ngô Bình Lâm dịch, 2009), 3) Định chế tôtem hiện nay (Nguyễn Tùng dịch, 2016), 4) Mặt khác của trăng: khảo luận về Nhật Bản (Nguyễn Duy Bình dịch, 2018), và 5) Nhân học đối diện với những vấn đề của thế giới hiện đại (Nguyễn Thị Hiệp dịch, 2020). Nguồn ảnh: Báo Tuổi Trẻ.

 

1.

Claude Levi-Strauss (1908 – 2009) là một nhà nhân học Pháp đã gây ảnh hưởng lớn lên khoa học nửa sau thế kỷ XX. Ông thuộc thế hệ trí thức chứng kiến cuộc khủng hoảng của văn minh Châu Âu, và muốn tìm một hướng đi cho nó. Theo ông, Châu Âu cần từ bỏ tư cách những thực dân, và tìm hiểu những nền văn minh khác, rồi dùng chính kinh nghiệm đó để tự nhìn nhận bản thân. Thật thế, không tồn tại những văn minh lạc hậu và tiến bộ, bởi vì tất cả đều bình đẳng. Vì vậy, trong một bài điểm sách trên The New York Review of Books ngày 28/11/1963, nhà văn Susan Sontag, một người bạn của Việt Nam trong thời chiến, đã gọi ông là “anh hùng của thời chúng ta”.

Năm 1986, ở tuổi 78 Claude Levi-Strauss nhận lời mời của quỹ Foundation Ishizaka tới Nhật Bản lần thứ tư, thực hiện ba buổi thuyết trình nhằm chỉ ra lăng kính mà nhân học thiết lập để nhìn thế giới, từ đó đưa ra cái nhìn chiếu vào những vấn đề lớn hiện nay. Ba bài giảng được ông đặt nhan đề chung là Nhân học đối diện với những vấn đề của thế giới hiện đại. Năm 2011, sau khi ông mất hai năm, lần đầu tiên ba bài giảng này được xuất bản.

Người biên soạn Maurice Olener kể lại quá trình soạn ba bài giảng của Claude Levi-Strauss: “Ông đọc lại những trang viết từng làm nên tên tuổi của mình, xem lại những chủ đề chính về xã hội vốn đã không ngừng làm ông ưu tư, trong đó có chủ đề về mối quan hệ giữa ‘chủng tộc’, lịch sử và văn hóa. Hay ông cũng suy ngẫm về tương lai khả thi của những thể thức mới của chủ nghĩa nhân đạo trong một thế giới đầy biến chuyển”. Cho nên, dù đây này không phải tác phẩm quan trọng nhất của nhà nhân học Pháp, TS Nguyễn Thị Hiệp (khi tham gia dự án xuất bản, bà đang làm việc tại Viện Khảo cứu Cao cấp Pháp) vẫn có lý do để dịch nó. “Mục đích của việc giới thiệu quyển sách nhỏ này là để cung cấp kiến thức căn bản, nền tảng về quan điểm của Levi-Strauss, trước khi độc giả tiếp xúc với những luận thuyết chuyên sâu của ông trong các công trình khác”.

 

2.

Tuổi trẻ của Claude Levi-Strauss minh chứng cho việc con người Châu Âu mắc kẹt trong chính văn minh của mình. Ông viết như này trong Nhiệt đới buồn (1955): “Tôi chuẩn bị lấy bằng thạc sĩ triết học không phải được thúc đẩy bởi một khuynh hướng thực thụ mà vì chán ghét các môn học khác tôi đã thử qua cho đến lúc đó”. Tại sao ông không hứng thú triết học, nền tảng của văn minh Châu Âu? Một lý do quan trọng là nó quá trừu tượng và xa rời thực tế, không tiến sâu hơn trong việc tìm hiểu con người – con người theo nghĩa chung nhất.

Năm 1933 hoặc 1934, ông tìm cờ đọc Xã hội nguyên thủy của nhà nhân học Mỹ Robert H. Lowie. Trong quá trình đọc quyển sách này, ông không được gặp những khái niệm triết học, cho bằng kinh nghiệm sống ở những xã hội thổ dân và một sự dấn thân đầy ý nghĩa của nhà quan sát. “Tư duy của tôi [Claude Levi-Strauss] thoát khỏi được trạng thái vật vã kín bưng gây ra bởi việc thực hành suy tư triết học. Được đưa ra ngoài không gian thoáng đãng, nó được tươi mát lại trong một luồng gió mới”.Từ đó ông tìm được con đường của mình, rộng hơn là nền văn minh của mình nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng, là nhân học.

Nhân học theo quan điểm của Levi-Strauss là một khoa học khách quan và toàn diện nghiên cứu con người. Phạm vi nghiên cứu của nó bao trùm toàn trái đất nơi con người sinh sống, phương pháp thì tập hợp tất cả phương pháp từ tất cả các dạng tri thức. Nói cách khác, không gì thuộc về con người xa lạ với nhân học.

 

3.

Tại sao nền văn minh Châu Âu rơi vào cuộc khủng hoảng trong thế kỷ XX? Dù nghịch lý, nguyên nhân là vị trí bá quyền của họ. Thật thế, sau cuộc thám hiểm Châu Mỹ thế kỷ XV, người Châu Âu thực dân hóa toàn thế giới. Người da đỏ bị tiêu diệt, người da đen bị bắt làm nô lệ và người da vàng bị bóc lột tàn bạo. Họ tuyên bố rằng chỉ người Châu Âu da trắng mới là con người thực sự, từ đó không công nhận những nền văn minh khác.

Nhưng làm sao một nền văn minh tự ý thức về bản thân trong thế cô lập, từ chối công nhận những nền văn minh khác? Trong loạt bài giảng Nhân học đối diện với những vấn đề của thế giới hiện đại, Claude Levi-Strauss nói: “Một nền văn minh tự nó không thể tự tư duy nếu không có một hoặc nhiều nền văn minh khác để so sánh. Để biết và hiểu nền văn minh của chính mình, cần phải học cách nhìn nó từ quan điểm của một nền văn minh khác”. Ông tiếp tục: “Nhân học giúp chúng ta tiết chế sự kiêu hãnh, tôn trọng những phong cách sống, tự vấn mình qua những hiểu biết về những tục lệ khác biệt làm cho chúng ta ngạc nhiên, bàng hoàng hay kinh sợ”.

 

4.

Tất cả nền văn minh trên thế giới do đó đều bình đẳng với nhau. Tức là những xã hội nơi cư dân giữ tục hái lượm lâu đời bình đẳng với các xã hội phương Tây. Nhưng sự đa dạng văn hóa này là đồng nghĩa với việc phủ nhận tiến bộ? Quả thật, câu hỏi này đã gây ra tranh cãi rất lớn ngay trong lần đầu ông thử giải đáp trong một quyển sách nhỏ Chủng tộc và lịch sử – thuộc loạt sách về vấn đề chủ nghĩa chủng tộc trên thế giới, được UNESCO xuất bản năm 1952. Ba mươi tư năm sau, tại Nhật Bản, ông cẩn thận xem lại vấn đề này và giữ quan điểm của mình.

Theo ông, sự tiến bộ của con người cần được nhìn nhận một cách linh hoạt, bởi vì nó không tiếp nối nhau như một người leo tuần tự từng bậc thang. Thực vậy, sự tiến bộ “diễn ra qua những bước nhảy vọt và những bước nhảy vọt này không hẳn luôn là bước tiến xa hơn hay theo cùng chiều hướng. Chúng đi cùng với những chuyển đổi về định hướng, gần giống như quân Mã có thể di chuyển theo mọi hướng trên bàn cờ. Sự tiến bộ của nhân loại không giống như một người đang leo cầu thang theo từng bước một nhưng đúng hơn là nó làm ta nghĩ đến một người chơi mà vận may chia đều trên nhiều quân cờ súc sắc và mỗi khi tất cả được tung ra cùng lúc, chúng bị phân tán tung tóe trên bàn”.

Một người theo chủ nghĩa tương đối như Claude Levi-Strauss không quan niệm về một lịch sử loài người duy nhất, và do đó sự tiến bộ của hiểu biết con người không đi theo cùng một hướng. Ngược lại, luôn tồn tại một sự đa dạng cần thiết nơi xã hội này tận dụng được những cơ hội để chinh phục thiên nhiên, xây dựng thế giới hậu công nghiệp, hay nơi xã hội khác không tận dụng được những tích lũy của hiểu biết nên vẫn sống như tổ tiên thời nguyên thủy.

Tuy nhiên nhìn vào thế giới hiện đại, Claude Levi-Strauss không mấy lạc quan. Năm 1993, Đài truyền hình Quốc gia Nhật Bản, NHK đặt cho ông câu hỏi: liệu giai đoạn tốt đẹp nhất trong lịch sử con người thuộc về tương lai? Ông trả lời rằng thời đẹp nhất là thời mà con người không coi mình là chúa tể của sự sáng tạo, mà biết rằng mình chỉ là một phần của sự sáng tạo đó – đồng thời với những sinh vật khác. Từ việc hiểu vị trí của mình, con người tôn trọng những sinh vật khác. “Trong tương lai, tôi e là như vậy, càng ngày càng tệ đi”.

 

NCS. Đăng Thành